Cần đảm bảo kỹ thuật cho sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp

09:00 28/08/2024

Mặc dù thị trường tiêu thụ sản phẩm gạo carbon thấp vẫn chưa rõ ràng và còn gặp khó khăn về chất lượng, đây được coi là hướng đi đúng để ngành gạo Việt Nam đón đầu xu hướng tiêu dùng mới.

Trong nỗ lực hỗ trợ các hợp tác xã (HTX), doanh nghiệp và các bên liên quan vượt qua khó khăn về nguồn vốn để phát triển chuỗi giá trị lúa gạo bền vững, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp cùng Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) và Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam tổ chức hội thảo "Tham vấn về tiếp cận tài chính trong chuỗi giá trị lúa gạo phát thải thấp tại Việt Nam" diễn ra từ ngày 27-28/8.

Tại hội thảo, các HTX khi tham gia Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030, cần phải hoàn thiện yếu tố kỹ thuật và cơ sở hạ tầng như giao thông đồng ruộng, thủy lợi, và cơ giới hóa đồng bộ để có thể sản xuất trên quy mô lớn.

Cần đảm bảo kỹ thuật cho sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp
Cần đảm bảo kỹ thuật cho sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp.

HTX nông nghiệp Phát Tài ở Trà Vinh, hiện được Nhà nước hỗ trợ về kỹ thuật, chi phí sạ cụm, và phân bón. Tuy nhiên, Giám đốc HTX Trần Văn Chung cho biết, họ cần thêm điều kiện để tiếp cận nguồn vốn đầu tư máy cuộn rơm, cần thiết cho việc thu gom và xử lý rơm rạ sau thu hoạch. Chi phí đầu tư cho máy cuộn rơm quy mô lớn có thể lên đến cả tỷ đồng.

Theo ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn, các HTX và nông dân hiện vẫn sản xuất trên quy mô nhỏ và chưa đồng bộ quy trình, dẫn đến tình trạng thiếu vốn sản xuất. Hơn nữa, các mô hình tín dụng truyền thống không thực sự phù hợp với các HTX, gây khó khăn trong việc tiếp cận vốn.

Đối với các doanh nghiệp liên kết với HTX trong sản xuất lúa phát thải thấp, họ cũng gặp khó khăn về nguồn lực tài chính để thực hiện các hợp đồng quy mô lớn. Do đó, cần có sự hỗ trợ tài chính trung và dài hạn để đảm bảo các hợp đồng liên kết với HTX, bao gồm cung ứng vật tư đầu vào, thu mua lúa chín, và đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật theo chuỗi giá trị.

Mặc dù thị trường tiêu thụ sản phẩm gạo carbon thấp vẫn chưa rõ ràng và còn gặp khó khăn về chất lượng, đây được coi là hướng đi đúng để ngành gạo Việt Nam đón đầu xu hướng tiêu dùng mới. Quan trọng hơn, nó giúp tiết giảm đáng kể chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế cho người nông dân.

Đề án đặt mục tiêu đến năm 2025 giảm lượng giống gieo sạ xuống còn 80 -100 kg/ha, giảm 20% lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật hóa học, và giảm 20% nước tưới so với canh tác truyền thống. Đến năm 2030, mục tiêu là giảm lượng giống gieo sạ xuống dưới 70 kg/ha, giảm 30% phân bón và thuốc bảo vệ thực vật hóa học, và tiếp tục giảm 20% lượng nước tưới.

Mô hình thí điểm tại Cần Thơ đã cho thấy hiệu quả tích cực dù sản phẩm chưa được gắn thương hiệu gạo phát thải thấp. Theo TS Nguyễn Văn Hùng từ IRRI, khi áp dụng quy trình kỹ thuật của Đề án 1 triệu ha, nông dân đã giảm 60 kg giống/ha, tiết kiệm 1,2 triệu đồng/ha, đồng thời giảm 30 kg phân đạm/ha, tiết kiệm 0,7 triệu đồng/ha. Tổng cộng, chi phí đầu vào của giống và phân đã giảm được 1,9 triệu đồng/ha.

Linh Anh